Thứ Ba, 11 tháng 2, 2020

Vì sao ở bài sớ dâng sao giải hạn lại phải lạy những vị thần linh rất lạ, không giống với phần lạy ở các bài khác?

Vì sao ở bài sớ dâng sao giải hạn lại phải lạy những vị thần linh rất lạ, không giống với phần lạy ở các bài khác?
Vì sao người xưa lại lạy 9 phương Trời, 5 phương Đất, Chư Phật 10 phương? 20-07-2012)
Vì sao người xưa lại lạy 9 phương Trời,  5 phương Đất,  Chư Phật 10 phương?Bài viết trả lời bạn đọc của Phlanhoa 
*** 

Phụ bản cho bài: “Cấu trúc thờ cúng tại nhà thờ họ và nghi lễ tế tổ hàng năm” 



Bạn: Nguyễn Mạnh Tân – Đồng Nai, hỏi:
Vì sao lại lạy 9 phương Trời, mà chỉ có 5 phương Đất, còn Chư Phật lại những 10 phương?
v     9 phương Trời gồm: 8 quái là Càn – Khảm – Cấn – Chấn – Tốn – Ly – Khôn – Đoài và  Trung cung Ngọc Hoàng Thượng Đế
v     5 phương Đất gồm: 4 hành (Hỏa – Thủy – Mộc – Kim) của 4 phương Nam – Bắc – Đông – Tây và và Trung cung Địa Vương Hậu Đế
v     10 phương Phật gồm: (Theo Mật Tông Kinh)
Năm phương Phật trong Thai Tạng Giới là:
1.      Trung ương Đức Tỳ-lô-giá-na.
2.      Đông phương Bảo Tràng Như Lai.
3.      Nam phương Khai Phu Hoa Vương Như Lai.
4.      Tây phương A-di-đà Như Lai
5.      Bắc phương Thiên Cổ Lôi Âm Như Lai và các chư tôn Bồ-tát.
Năm phương Phật của Kim Cang Giới là:
1.      Trung ương Đức Đại Nhật Như Lai.
2.      Đông phương A-súc-bệ Như Lai.
3.      Nam phương Bảo Sanh Như Lai.
4.      Tây phương Vô Lượng Thọ Như Lai.
5.      Bắc phương Bất Không Thành Tựu Như Lai và các chư tôn Bồ-tát
***
Bạn: Lê Quý Toàn – Diễn Châu, hỏi:
Vì sao ở bài sớ dâng sao giải hạn lại phải lạy những vị thần linh rất lạ, không giống với phần lạy ở các bài khác?
Việc cúng giải hạn đối với 9 ngôi sao trong cái gọi là “Hạn kiết hung” xuất phát từ lý thuyết Phật giáo. Theo các nhà thuật số của Phật giáo thì chu kỳ mỗi 9 năm tuổi đời của mỗi người lần lượt bị chiếu mệnh bởi 9 ngôi sao, sự chiếu sao có tốt, có xấu tùy vào phương hướng xuất hiện của ngôi sao đó.
Theo giải thích của các nhà khoa học, thì lượng nguyên tố hóa học của mỗi ngôi sao có khác nhau, thậm chí có những nguyên tố hóa học có ở ngôi sao này mà không có ở ngôi sao kia. Thời điểm ngôi sao sáng nhất, đồng nghĩa là khi nó ở gần trái đất nhất, và có ảnh hưởng đến sự sống trên trái đất, ví dụ như có thể gây nên hạn hán, lũ lụt, động đất, nhưng cũng có thể là ảnh hưởng tốt như mưa thuận gió hòa, con người mạnh khỏe vv…
Cổ nhân xưa, tuy chưa có trình độ phân tích các yếu tố hóa học, nhưng lại có sự ghi chép tỉ mẩn về những ảnh hưởng của các ngôi sao để đúc rút kinh nghiệm, và các đệ tử của môn phái Phật giáo nghĩ rằng cần phải cúng dâng sao để giải hạn xấu và nghênh tốt lành.
Do đó, Phlanhoa cho rằng không đủ cơ sở để chứng minh việc cúng sao là có thể giải được hạn?
So với lý thuyết trên của Phật giáo, thì Kinh dịch của Khổng Tử không hướng dẫn hậu duệ đời sau cúng bái để giải hạn, mà đem lý thuyết luận giải gói gọn bằng  64 quẻ dịch để chỉ ra các hướng tốt xấu, những điều nên tránh không làm khi đi vào vận hạn. Nghĩa là lấy lý trí, lấy đạo nghĩa để tự giải hạn cho chính mình theo chân lý “Đức năng thắng số”, xem ra hữu hiệu hơn…
Tuy vậy, bạn và những ai còn chưa thực sự thoát khỏi mê tín, đang trong tình trạng nửa tin nửa ngờ, thì việc dâng một mâm lễ trai đàn giải hạn cũng không tốn kém gì, cốt là tự trấn an tinh thần cho mình và người thân cũng không sao. Phương pháp sắm lễ và sớ cúng mẫu Phlanhoa đã nói ở bài “Cấu trúc thờ cúng tại nhà thờ họ và nghi lễ tế tổ hàng năm”. Dưới đây, Phlanhoa bổ sung thêm phương pháp tính sao hạn và phương pháp bày lễ dâng sao giải hạn:
Bảng tính hạn sao kiết hung
Nam
Tuổi
Nữ
La hầu
10
19
29
37
46
55
64
73
82
Kế đô
Thổ tú
11
20
29
38
47
56
65
74
83
Vân hán
Thuỷ diệu
12
21
30
39
48
57
66
75
84
Mộc đức
Thái bạch
13
22
31
40
49
58
67
76
85
Thái âm
Thái dương
14
23
32
41
50
59
68
77
86
Thổ tú

KỲ 3: TÂM LINH HUYỀN BÍ NƠI TÂY TẠNG


undefined

KỲ 3: TÂM LINH HUYỀN BÍ NƠI TÂY TẠNG 


Nhiều nhà khoa học và dân tộc học nổi tiếng đã đơn phương độc mã trèo đèo vượt núi trong tuyết lạnh để vào xứ sở của "đỉnh trời" là xứ Tây Tạng không ngoài mục đích là tìm hiểu tận nơi những gì thuộc lãnh vực siêu linh huyền bí.

Từ xưa đến nay có nhiều nhà nghiên cứu chuyên nghiệp và cả những người "nghiệp dư" muốn tìm hiểu về hiện tượng tâm linh, đã đi sâu vào những nơi mà họ cho là trung tâm của các sự kiện huyền bí, để chứng kiến tận mắt những hiện tượng lạ lùng không thể giải thích được…

Khám phá

Nhiều nhà khoa học và dân tộc học nổi tiếng như James Frazer, R. Muller, William Halse Ricers, Ions Veronica, Mbiti John, Wentz W. E, Osborne Harold... đặc biệt là một người phụ nữ, một nữ văn sĩ tên là Alexandra David Neel đã đơn phương độc mã trèo đèo vượt núi trong tuyết lạnh để vào xứ sở của "đỉnh trời" là xứ Tây Tạng không ngoài mục đích là tìm hiểu tận nơi những gì thuộc lãnh vực siêu linh huyền bí. Nhờ đó mà thế giới Tây phương mới biết được những cuộc sống lạ lùng của các vị Lạt Ma Tây Tạng, nhất là biết về những năng lực tâm linh kỳ bí của những vị sư sống trong hang động, nơi mà "Trời" và "Đất" gần như giao hòa với nhau thành một thể.
Tâm linh huyền bí nơi Tây Tạng
Điểm đặc biệt đáng nhắc đến là nơi đây các vị sư đều có khả năng cao về nhận thức, họ có thể hiểu nhau qua không gian hơn là biểu lộ bằng lời nói hay hành động. Nhờ khả năng đọc được tư tưởng người khác mà nhiều vị Lạt Ma Tây Tạng biết trước được những gì mà người khác đang dự tính trong đầu. Ngoài ra những vị này còn có khả năng phân tích vầng màu sắc tỏa ra từ đầu bất cứ ai để từ đó biết được ý tưởng tốt hay xấu mà người đó đang dự định. Đây chính là nguồn năng lực của con mắt thứ ba đã được nhiều tài liệu nhắc tới với tên gọi là "Thần nhãn" hay "Huệ nhãn".
Trở lại vấn đề khả năng thông hiểu ý tưởng người khác cũng như thấy rõ và phân biệt vầng màu mà các vị Lạt Ma Tây Tạng có được thì đó lại là sự kiện có vẻ bình thường đối với người dân Tây Tạng. Lý do dễ hiểu là từ tấm bé, họ đã được cha mẹ kể cho nghe chuyện cổ tích về người Tây Tạng thời cổ xưa, theo chuyện cổ này thì thời xưa ấy, người Tây Tạng ai cũng có một "nhãn lực" đặc biệt, nhãn lực này không phải từ đôi mắt thông thường của con người mà là từ một con mắt thứ ba này mà người xưa gọi là Thần nhãn hay nói theo kinh điển là Huệ nhãn. Về sau, vì con người bị lôi kéo dần vào đường vật chất, ích kỷ, tham lam, sân hận, mê mờ nên trí óc không còn trong sạch, sáng suốt. Cuối cùng như tấm gương bị bụi mờ che kín, con mắt thứ ba trở thành u tối không còn sử dụng được nữa.
Các nhà nghiên cứu về Huệ nhãn đã bắt gặp trong giới động vật hình ảnh trung thực nhất về con mắt thứ ba một cách rõ rệt không chối cãi. Tuy nhiên câu hỏi tại sao lại có sự hiện hữu và công dụng thực tế thì lại còn lắm mơ hồ. Đặc biệt lạ lùng là ngay trong giới động vật có xương sống cấp dưới thì lại thấy hiện một cấu tạo giống như cấu tạo mắt bình thường, nghĩa là cũng có dây thần kinh, thủy tinh thể và võng mạc... Ngay cả loài cá, lưỡng thê, bò sát, chim, cả động vật có vú kể cả con người cũng đều có dấu tích con mắt thứ ba.
Khi khảo sát bộ xương của loài khủng long thời tiền sử, các nhà cổ sinh vật học cũng chú ý tới một chỗ lõm nơi phần sọ của loài bò sát khổng lồ này và đã đoán nơi đây là vị trí của một cơ quan thị giác hay nói theo suy tưởng của sự kiện đang bàn là "con mắt thứ ba". Công dụng của con mắt này có lẽ để giúp các loài động vật thời cổ không những thấy mà còn biết thêm hay cảm nhận trước được tình trạng chung quanh như mưa, gió nhất là các vật thể nằm khuất ở vị trí phía trên đầu.

Khai mở "Huệ nhãn"

Những khám phá mới đây nhất (vào năm 1996) từ một số nhà khoa học đã cho biết là trong não người có một tuyến tuy rất nhỏ, chỉ bằng hạt đậu xanh nhưng nhiệm vụ của tuyến này rất kỳ diệu, chỉ tiết ra loại nhân hóa tố đặc biệt với một lượng rất nhỏ trong trường hợp con người đang chú tâm cầu nguyện với tất cả thành tâm, hay vào các giai đoạn con người ở tình trạng nguy biến, thập tử nhất sinh. Cái tuyến lạ lùng đó là tuyến Tùng quả (Pineal gland). Khi phân hóa tố của tuyến đi vào máu thì cơ thể sẽ có những phản ứng kỳ diệu bất ngờ mà lúc bình thường không có được. Các nhà sinh vật học còn khám phá ra rằng tuyến Pineal glandcòn có liên quan tới bộ phận mà người Tây Tạng gọi là con mắt thứ ba.
Chỉ những ai chịu vứt bỏ lòng tham luyến sân si mê mờ, quyết tâm giữ lòng trong sạch và tu trì mới có được Huệ nhãn. Chính phần lớn các vị Đại sư Tây Tạng, những người ẩn cư nơi vùng núi cao tuyết giá hay trong các Đạo viện thâm nghiêm là có thể có năng lượng "thượng thừa" ấy mà thôi. Tuy nhiên, theo các vị Đại sư thì không phải tất cả các vị chân tu Tây Tạng đều có Thần nhãn hay Huệ nhãn như ta tưởng, vì muốn có được Thần nhãn thì ngoài hội đủ các điểm cần yếu như đã nói trên, còn phải có Thần lực đặc biệt kết hợp với các pháp môn tu luyện cao siêu mới được.
Tâm linh huyền bí nơi Tây Tạng
Phép tu luyện cao siêu đó có mục đích là để khai mở Huệ nhãn. Một khi đã có Huệ nhãn rồi thì dù ngồi tĩnh tọa trong viện, nơi núi cao hay trong rừng sâu vẫn có thể thấy được những gì xảy ra ở khoảng cách rất xa, hay chuyển di tư tưởng đến một nơi nào đó cho ai.
Tại Tây Tạng, nhiều Đạo viện thường có những buổi thực tập về phép chuyển di tư tưởng giữa các hàng đệ tử trong giai đoạn tu luyện các phép thần thông. Phương cách thực tập rất khoa học, lúc đầu hai người đệ tử ngồi cạnh nhau để chuyển tư tưởng cho nhau. Khi bắt được tư tưởng của nhau rồi thì khoảng cách tĩnh tạo giữa hai người này sẽ ở vị trí xa hơn.
Cứ thế mà về lâu về dài họ có thể đạt tới khả năng truyền tư tưởng cho nhau qua khoảng cách rất xa: hoặc từ đạo viện này đến đạo viện khác, từ hang động này đến hang động khác. Theo bà Alexandra David Neel thì dãy Hy Mã Lạp Sơn tuyết phủ im lìm hoang vắng nhưng lại là nơi các nguồn tư tưởng của các vị ẩn tu giăng bủa khắp nơi nơi...